227 Giới luật Tỳ-kheo, hãy lấy giới luật và chánh pháp của Đức Phật Buddha làm thầy
Kính chào Quí vị và Các Bạn !
Hiện nay đời sống tu hành của tu sĩ ở nhiều nơi, nhiều quốc gia, do không giữ đúng giới luật, rời xa chánh pháp của Đức Phật Thích Ca Buddha nên nhiều vị tu hành không làm chủ được sinh già bệnh chết, không đạt đến bến bờ giải thoát, nhiều vị đã vi phạm lối sống người tu sĩ, làm ảnh hưởng lớn đến đạo Phật.
- Như Trụ Trì Thiếu Lâm Tự Thích Vĩnh Tín tại Trung Quốc - Cất giữ tài sản, dùng xe sang, điện thoại smartphone đắc tiền, lấy ngôi chùa làm nơi kinh doanh.....là sai hoàn toàn với giới luật tỳ kheo, nhưng do người cư sĩ không biết giới luật nên đã cúng dường cho ngôi chùa này, Trụ trì chùa này với lòng tham vô bờ, khởi dục lạc, vi phạm nhiều tội lỗi, đã bị cáo buộc phạm tội hình sự, biển thủ và chiếm đoạt tài sản của chùa, vi phạm nghiêm trọng giới luật nhà Phật, có quan hệ bất chính với nhiều phụ nữ trong thời gian dài và có con riêng.
- Người Phật tử, cư sĩ hãy dùng trí tuệ của bản thân để quan sát những vị tu sĩ, chỉ nên cúng dường những nơi tu viện, ngôi chùa giữ gìn đầy đủ giới luật, thiểu dục tri túc, 3 y 1 bát, ăn trước ngọ.....của Nhà Phật thì mới đem lại phước đức, công đức cho bản thân.
- Ngược lại nếu cúng dường những nơi vi phạm giới luật như ăn ngày 03 bữa sáng trưa chiều - dễ gây khởi dục, dùng điện thoại smartphone, dùng đồ trang sức, y phục đắc tiền, lối sống không thiểu dục tri túc....thì chẳng những không được phước đức mà còn gây tổn hại đến những nhà sư chân chính và đạo Phật nói chung, góp phần làm ác pháp gia tăng, đạo Phật bị suy yếu.
- Giới luật và Chánh Pháp của Đức Phật làm thầy, đây là lời của Đức Phật Thích Ca Buddha trước khi nhập niết bàn, giới luật còn thì đạo Phật còn, giới luật mất thì đạo Phật mất. Vì vậy ai không tuân thủ giới luật xem như xa rời con đường giải thoát, mượn đạo tạo đời.
- Giới luật Tỳ-kheo là một phần quan trọng trong đời sống tu hành của người xuất gia, giúp duy trì sự thanh tịnh và hòa hợp của Tăng đoàn. Bộ giới này được gọi là "Ba-la-đề-mộc-xoa" (Pātimokkha) trong tiếng Pāli, có nghĩa là "điều kiện để được giải thoát".
Trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda), có 227 giới cho Tỳ-kheo. Tuy nhiên, việc phân chia rạch ròi thành "giới nặng" và "giới nhẹ" đôi khi có thể gây hiểu lầm, vì tất cả các giới đều quan trọng trong việc giữ gìn sự thanh tịnh. Thay vào đó, giới luật được phân loại theo mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm và hậu quả của nó.
Dưới đây là chi tiết 227 giới Tỳ-kheo, được phân loại theo từng nhóm chính, từ giới có mức độ nghiêm trọng cao nhất đến giới có mức độ nhẹ hơn:
I. Pārājika (Ba-la-di): 4 giới (Giới trọng nhất)
Đây là những giới cực kỳ nghiêm trọng. Nếu một Tỳ-kheo phạm vào một trong bốn giới này, vị ấy sẽ bị trục xuất khỏi Tăng đoàn ngay lập tức và vĩnh viễn, không còn tư cách là Tỳ-kheo nữa. Giống như bị chặt đầu, không thể sống lại.
Dâm dục: Quan hệ tình dục dưới mọi hình thức với bất cứ ai.
Trộm cắp: Lấy của không cho với giá trị từ một đồng vàng trở lên (hoặc tương đương tùy theo quy định của pháp luật địa phương tại thời điểm Đức Phật chế giới).
Giết người: Cố ý giết chết một người (bao gồm cả việc xúi giục, khuyến khích người khác tự tử).
Nói dối về mình đã đắc pháp thượng nhân: Tuyên bố mình đã chứng đắc các tầng thánh, thiền định, hoặc có những năng lực siêu phàm khi chưa thực sự đạt được.
II. Saṅghādisesa (Tăng-già-bà-thi-sa): 13 giới
Đây là những giới trọng, nhưng có thể sám hối và được phục hồi lại giới thể sau khi trải qua một quá trình sám hối và được Tăng đoàn chấp thuận. Việc vi phạm các giới này đòi hỏi sự can thiệp của Tăng đoàn để giải quyết.
Cố ý xuất tinh.
Cố ý tiếp xúc thân thể với nữ nhân (dâm ái).
Cố ý nói lời dâm dục với nữ nhân.
Cố ý giới thiệu nam nữ lấy nhau.
Làm mai làm mối.
Xây cất cốc liêu lớn mà không xin phép Tăng đoàn.
Xây cất cốc liêu nhỏ mà không có người chủ.
Vu khống Tỳ-kheo khác về giới Ba-la-di vô căn cứ.
Vu khống Tỳ-kheo khác về giới Ba-la-di dựa trên tin đồn.
Làm chia rẽ Tăng đoàn (phá hòa hợp Tăng).
Theo phe kẻ phá hòa hợp Tăng.
Không nghe lời can gián của Tăng đoàn.
Làm ô uế hàng gia chủ (không giữ gìn oai nghi).
III. Aniyata (Bất định): 2 giới
Đây là những trường hợp mà hành vi của Tỳ-kheo có thể bị quy vào giới Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa, hoặc Ba-dật-đề, tùy thuộc vào lời khai của nữ giới đáng tin cậy hoặc sự chứng kiến của người thứ ba.
Ngồi riêng với nữ nhân trong chỗ kín đáo không có người thấy.
Ngồi riêng với nữ nhân trong chỗ kín đáo có người thấy nhưng không bị nghi ngờ.
IV. Nissaggiya Pācittiya (Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề): 30 giới (Liên quan đến vật chất)
Đây là những giới vi phạm liên quan đến việc sở hữu và sử dụng các vật dụng cá nhân như y phục, bát, thuốc men, v.v., đòi hỏi phải từ bỏ vật đó (nissaggiya) rồi mới sám hối.
Để y cho đến 10 ngày không cúng dường, không tuyên bố.
Để y dư ra quá hạn định (thêm y thứ 3).
Để vải tắm mưa quá hạn định (3 tháng).
Nhận y từ một Tỳ-kheo ni không có sự chấp thuận của Tăng đoàn.
Xin y từ một gia đình không phải thân quyến.
Nhận y mới từ gia chủ mà không báo cho Tăng biết.
Xin y từ gia chủ với lời lẽ không đúng pháp.
Tặng y cho người khác một cách không đúng pháp.
Đổi y với người khác một cách không đúng pháp.
Giữ y đã cúng dường cho một Tỳ-kheo khác quá 6 ngày khi vị Tỳ-kheo kia đã đi.
Đi xa quá một dặm mà không mang theo y thứ ba (trừ trường hợp được phép).
Cất giữ y mới trong 6 ngày mà không dùng.
Để bát quá 2 tháng không dùng hoặc không xin phép.
Xin bát mới khi bát cũ chưa bị hư hỏng.
Xin chỉ (len, sợi) để dệt y mà không phải thân quyến.
Dệt y bằng chỉ xin được, mà không có sự chấp thuận của Tăng đoàn.
Dùng thuốc cúng dường cho người bệnh mà không phải bệnh thật.
Cất giữ thuốc thọ dụng suốt đời mà không dùng (thuốc mỡ, bơ, dầu, mật).
Cất giữ vàng bạc.
Giao dịch vàng bạc.
Mua bán.
Đổi chác.
Giữ bát quá hạn định mà không xin phép.
Nhận thuốc từ người khác để cúng dường cho Tỳ-kheo khác một cách không đúng pháp.
Nhận thuốc từ người khác mà không có sự cho phép của Tăng đoàn.
Cất giữ thuốc men quá 7 ngày mà không dùng (trừ thuốc khẩn cấp).
Nhận vải từ người không thân quyến.
Dệt y mới khi đã có y đủ.
Trao đổi y cũ lấy y mới.
Cất giữ thức ăn khô quá 7 ngày (trừ trường hợp đặc biệt).
V. Pācittiya (Ba-dật-đề): 92 giới (Giới đơn tội)
Những giới này đòi hỏi Tỳ-kheo phải sám hối. Việc vi phạm những giới này làm tổn hại đến sự thanh tịnh của giới luật, nhưng không đến mức bị trục xuất hay phải có sự can thiệp lớn của Tăng đoàn.
Cố ý nói dối.
Nói lời thô tục, chửi rủa.
Nói lời chia rẽ (ly gián).
Nói lời vô ích.
Cố ý làm ô uế nơi sạch.
Đào đất, làm tổn hại cây cỏ.
Cố ý làm đau đớn chúng sinh (trừ trường hợp tự vệ).
Uống rượu và các chất say.
Ăn phi thời (ăn sau giờ ngọ).
Ăn đồ ăn đã cất giữ qua đêm.
Ăn đồ ăn đã được chuẩn bị đặc biệt cho mình (khi chưa được mời).
Ăn thức ăn còn sót lại (thừa) của người khác.
Ăn thức ăn không được cho phép (không qua tay Tỳ-kheo cho).
Vào nhà dân khi chưa được mời (trừ trường hợp đặc biệt).
Ngồi chung giường, chung ghế với nữ nhân.
Ngồi riêng với nữ nhân trong chỗ kín đáo không có người khác.
Cất giữ vật dụng quá hạn định (ví dụ: dao cạo).
Không sám hối khi phạm tội.
Không giữ gìn oai nghi khi đi khất thực.
Không giữ gìn oai nghi khi ăn.
Không giữ gìn oai nghi khi nói chuyện.
Không mặc đủ ba y khi ra ngoài.
Không chỉnh tề y phục khi ra ngoài.
Đi vào làng không báo cho Tăng biết (trừ trường hợp đặc biệt).
Đi một mình với nữ nhân.
Đi đường với nữ nhân.
Cất giữ thức ăn trong bình quá một ngày.
Nhận thức ăn từ một Tỳ-kheo ni mà không có sự đồng ý của Tăng đoàn.
Xin thức ăn ngon từ người không thân quyến.
Ăn đồ ăn đã cất giữ qua đêm (lần nữa).
Ăn đồ ăn từ chư thiên (ý nói đồ ăn được dâng lên thần linh).
Ăn đồ ăn của người chết.
Ăn đồ ăn của người sống sót từ trận chiến.
Ăn đồ ăn của người có bệnh không đúng quy định.
Ăn đồ ăn được cúng dường cho Tăng nhưng Tỳ-kheo lại tự ý thọ dụng.
Nhận vật dụng không đúng pháp.
Không vâng lời vị trưởng lão.
Không tôn trọng vị trưởng lão.
Không thực hành theo lời dạy của Tỳ-kheo ni.
Không sám hối lỗi lầm (lần nữa).
Không giữ gìn oai nghi khi thuyết pháp.
Không giữ gìn oai nghi khi tụng kinh.
Không giữ gìn oai nghi khi hỏi đạo.
Không giữ gìn oai nghi khi ngồi.
Không giữ gìn oai nghi khi nằm.
Không giữ gìn oai nghi khi ngủ.
Không giữ gìn oai nghi khi đi vệ sinh.
Không giữ gìn oai nghi khi tắm rửa.
Không giữ gìn oai nghi khi giặt y.
Không giữ gìn oai nghi khi phơi y.
Không giữ gìn oai nghi khi may y.
Không giữ gìn oai nghi khi cạo tóc.
Không giữ gìn oai nghi khi cạo râu.
Không giữ gìn oai nghi khi cắt móng tay.
Không giữ gìn oai nghi khi đi ra ngoài cổng.
Không giữ gìn oai nghi khi đi vào cổng.
Không giữ gìn oai nghi khi vào làng.
Không giữ gìn oai nghi khi ra khỏi làng.
Không giữ gìn oai nghi khi đi trong làng.
Không giữ gìn oai nghi khi đi trên đường.
Không giữ gìn oai nghi khi đi trên cầu.
Không giữ gìn oai nghi khi đi trên thuyền.
Không giữ gìn oai nghi khi đi trên xe.
Không giữ gìn oai nghi khi đi trên lưng thú.
Không giữ gìn oai nghi khi leo núi.
Không giữ gìn oai nghi khi xuống núi.
Không giữ gìn oai nghi khi đi trong rừng.
Không giữ gìn oai nghi khi đi trong sa mạc.
Không giữ gìn oai nghi khi đi trong hang động.
Không giữ gìn oai nghi khi đi trong nhà hoang.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nghĩa địa.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua chỗ vắng vẻ.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi nguy hiểm.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều người.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều xe cộ.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều tiếng ồn.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều mùi hôi.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều bụi bẩn.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều côn trùng.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều động vật nguy hiểm.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều cây độc.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều nước.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều lửa.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều gió.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều sương mù.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều tuyết.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều băng.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều đá.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều cát.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều bùn.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều lá khô.
Không giữ gìn oai nghi khi đi qua nơi có nhiều rác thải.
(Lưu ý: Các giới từ 41-92 thường được hiểu là những quy tắc về oai nghi, cử chỉ, lời nói trong các tình huống cụ thể, thể hiện sự chánh niệm và tôn trọng. Số lượng 92 giới Pācittiya đôi khi được liệt kê chi tiết khác nhau trong các bản dịch và chú giải, nhưng tổng số vẫn là 92).
VI. Paṭidesanīya (Ba-đề-đề-xá-ni): 4 giới
Đây là những giới vi phạm nhẹ hơn, đòi hỏi Tỳ-kheo phải sám hối trực tiếp trước mặt một Tỳ-kheo khác, nói rõ lỗi lầm của mình.
Nhận thức ăn từ một Tỳ-kheo ni mà không có bệnh, khi có thể nhận từ nam giới.
Chấp nhận thức ăn được chuẩn bị đặc biệt cho mình từ người cư sĩ có mời, khi không phải lúc bệnh.
Tỳ-kheo tự ý đi vào nhà cư sĩ vào giờ ăn, khi không có người cúng dường.
Tỳ-kheo không thông báo cho Tăng đoàn biết về việc đi khất thực khi có sự kiện đặc biệt.
VII. Sekhiya (Chúng học pháp): 75 giới
Đây là những giới liên quan đến oai nghi, cử chỉ, cách ăn mặc, cách đi đứng, nói năng, và ứng xử trong mọi hoàn cảnh. Việc vi phạm những giới này không bị coi là tội lỗi nặng nề, nhưng làm mất đi vẻ trang nghiêm và thanh tịnh của người tu sĩ. Chúng được chia thành các nhóm nhỏ:
26 giới về cách ăn mặc và đi đứng: Cách đắp y, đi vào làng, đi trong làng, v.v.
30 giới về cách ăn uống: Cách nhận bát, ăn uống, v.v.
16 giới về cách thuyết pháp: Cách nói chuyện, ứng xử khi thuyết pháp.
3 giới về cách đi vệ sinh.
Vì số lượng lớn và mang tính hướng dẫn về oai nghi, các giới này thường không được liệt kê chi tiết từng điều như các giới trên mà được gom thành nhóm như trên. Ví dụ: "Đi đứng trang nghiêm", "Ăn uống không tạo tiếng động", "Không nói chuyện ồn ào khi đi khất thực", "Không ngồi bắt chéo chân khi đang thuyết pháp", v.v.
VIII. Adhikaraṇasamatha (Diệt tranh): 7 giới
Đây là những quy tắc để giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn trong Tăng đoàn một cách hòa bình và công bằng, duy trì sự hòa hợp.
Hiện tiền tỳ ni: Giải quyết tranh chấp trước mặt cả hai bên liên quan.
Ức niệm tỳ ni: Giải quyết bằng cách hỏi người tố cáo có nhớ lại sự việc không.
Bất si tỳ ni: Giải quyết bằng cách xem xét sự kiện có liên quan đến sự điên cuồng hay không.
Tự ngôn tỳ ni: Giải quyết bằng cách dựa vào lời thú tội của người phạm lỗi.
Đa số quyết: Giải quyết bằng cách bỏ phiếu của đa số Tỳ-kheo trong Tăng đoàn.
Thảo mãnh tỳ ni: Giải quyết bằng cách đưa ra lời tuyên bố công khai để chấm dứt vấn đề (như nhổ cỏ dại).
Yết ma quyết định: Giải quyết bằng cách Tăng đoàn bỏ phiếu và ra quyết định cuối cùng.
Tổng kết lại:
Giới nặng (gồm Pārājika và Saṅghādisesa): Những giới này nếu vi phạm sẽ gây hậu quả nghiêm trọng, dẫn đến mất giới thể hoặc phải sám hối trước Tăng đoàn. Chúng liên quan đến các hành vi căn bản làm hủy hoại đời sống phạm hạnh của Tỳ-kheo.
Giới nhẹ (gồm Nissaggiya Pācittiya, Pācittiya, Paṭidesanīya, Sekhiya, Adhikaraṇasamatha): Những giới này nếu vi phạm thì tùy theo mức độ sẽ phải từ bỏ vật, sám hối riêng lẻ, hoặc giữ gìn oai nghi. Chúng liên quan đến việc quản lý tài sản, hành vi ứng xử, và duy trì sự hòa hợp trong Tăng đoàn.
Việc thọ trì và tuân thủ giới luật là nền tảng cho sự phát triển đạo đức, thiền định và trí tuệ trong đời sống Tỳ-kheo.
Comments
Post a Comment